Nổi bật Trường phái trọng tiền

Clark Warburton được coi là người đưa ra luận cứ thực nghiệm vững chắc đầu tiên cho việc biện bạch trường phái tiền tệ về biến động kinh doanh trong một loạt các thuyết trình từ năm 1945. Trong kinh tế học chính thống, sự nổi lên của trường phái tiền tệ tăng nhanh từ khi 1956 Milton Friedman đã trình bày lại lý thuyết số lượng tiền. Friedman cho rằng nhu cầu về tiền có thể mô tả như phụ thuộc vào một lượng nhỏ các biến số kinh tế.[6]Vì vậy, những nơi cung tiền mở rộng, người ta sẽ không đơn giản là muốn giữ thêm tiền trong số dư tiền nhàn rỗi; nghĩa là, nếu họ ở trong trạng thái cân bằng trước khi tăng, họ đã giữ số dư tiền cho phù hợp với nhu cầu của họ, và do đó sau khi tăng họ sẽ có số dư tiền dư thừa theo nhu cầu của họ. Do đó, các số dư tiền thừa này sẽ được chi tiêu và do đó tổng cầu sẽ tăng. Tương tự như vậy, nếu cung tiền đã giảm mọi người sẽ muốn bổ sung tiền của họ bằng cách giảm chi tiêu. Trong ý này, Friedman thách thức sự coi thường của Keynes cho rằng "tiền không quan trọng." [6] Như vậy từ "trường phái tiền tệ" được ra đời.

Sự gia tăng phổ biến của trường phái trọng tiền cũng bắt bén trong giới chính trị khi kinh tế Keynes dường như không thể giải thích hoặc sửa chữa những vấn đề dường như mâu thuẫn của tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát tăng cao để đáp ứng với sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods vào năm 1972 và các cú sốc dầu mỏ năm 1973. Một mặt, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn dường như khơi gợi gia tăng lạm phát của Keynes, mặt khác lạm phát gia tăng dường như kêu gọi hạ thấp lạm phát của Keynes.Năm 1979, Tổng thống Jimmy Carter bổ nhiệm một Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Paul Volcker, người đã chống lạm phát làm mục tiêu chính của mình, và hạn chế cung tiền (theo quy tắc Friedman) để kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế. Kết quả là việc tạo ra sự ổn định giá cả như mong muốn.

Trường phái tiền tệ không chỉ tìm cách giải thích vấn đề hiện tại; họ cũng giải thích những trường phái tiền tệ trong quá khứ. Milton Friedman và Anna Schwartz trong cuốn sách Lịch sử tiền tệ của Hoa Kỳ, 1867-1960 cho rằng cuộc Đại suy thoái năm 1930 đã được gây ra bởi sự thu hẹp lớn của cung tiền và không phải do thiếu đầu tư như Keynes đã tranh luận. Họ cũng cho rằng lạm phát sau chiến tranh đã được gây ra bởi quá mở rộng cung tiền.Họ trở nên nổi tiếng nhờ vào khẳng định của trường phái trọng tiền đó là "lạm phát luôn luôn và ở khắp mọi nơi là một hiện tượng tiền tệ ". Nhiều nhà kinh tế Keynes ban đầu tin rằng thuyết của Keynes so với cuộc tranh luận phái tiền tệ là chỉ là việc liệu chính sách tài khóa hoặc tiền tệ có là công cụ hiệu quả hơn cho quản lý nhu cầu. Tuy nhiên, vào giữa những năm 1970, cuộc tranh luận đã chuyển sang các vấn đề khác khi trường phái tiền tệ bắt đầu trình bày một thách thức cơ bản đối với chủ nghĩa Keynes.

Nhiều phái trọng tiền nhân tìm cách hồi sinh quan điểm có trước Keynes rằng nền kinh tế thị trường vốn đã ổn định trong trường hợp không có biến động bất ngờ lớn trong việc cung tiền. Vì niềm tin trong sự ổn định của nền kinh tế thị trường tự do này mà họ khẳng định rằng điều hướng cầu tích cực (ví dụ như cách gia tăng chi tiêu chính phủ) là không cần thiết và thực sự có khả năng gây hại. Các cơ sở của lập luận này là một sự cân bằng giữa 'kích thích' chi tiêu tài chính và lãi suất trong tương lai. Trong thực tế, mô hình Friedman lập luận rằng chi tiêu tài chính (I) cũng gây ảnh hưởng đến nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất như nó tạo ra với sức tiêu dùng (C): rằng nó không có ảnh hưởng thực sự tới tổng cầu, chỉ đơn thuần là nhu cầu chuyển từ khu vực đầu tư (I) vào lĩnh vực tiêu dùng (C).

Khi Margaret Thatcher, lãnh đạo đảng Bảo thủVương quốc Anh, đã thắng được cuộc tổng tuyển cử năm 1979 đánh bại lãnh đạo Công đảng đương nhiệm James Callaghan, Anh đã phải chịu đựng nhiều năm lạm phát nghiêm trọng, đó là hiếm khi dưới 10% và vào thời gian của cuộc bầu cử Tháng 5 năm 1979 đã đứng ở mức 10,3%.[7] Thatcher thực hiện lý thuyết trọng tiền như là vũ khí trong trận chiến chống lại lạm phát, và đã thành công trong việc giảm nó đến 4,6% năm 1983.

James Callaghan đã áp dụng chính sách lý thuyết trọng tiền tiếng tăm đó khi là Thủ tướng 1976-1979, việc áp dụng chính sách giảm phát và giảm chi tiêu công để đáp ứng với lạm phát cao và nợ quốc gia. Lúc đầu, ông đã có một số thành công, như lạm phát dưới 10% vào mùa hè năm 1978, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp hiện nay đứng ở mức 1.500.000. Tuy nhiên, đến thời điểm thất bại bầu cử của mình chỉ một năm sau đó, lạm phát đã tăng lên 27%.[8]

Phê phán

Theo Alan BlinderRobert Solow,[9] chính sách tài khóa trở nên bất lực khi một lãi suất co giãn của cầu tiền là số không. Theo kinh nghiệm, một lãi suất co giãn như vậy không có xảy ra. Tuy nhiên, có những hạn chế cho lựa chọn chính sách này khi lãi suất bằng hoặc gần bằng không thấp hơn giới hạn của nó.

Mặc dù Milton Friedman [9] tin rằng biến động tài sản làm cho bội chi thu hẹp, nhưng trong thực tế nó kích thích tài chính có hiệu quả. Để thấy điều này, Blinder và Solow sử dụng một phương trình hạn chế ngân sách nhà nước bao gồm lãi suất trái phiếu chính phủ:

G + B − T ( Y + B ) = M ˙ + B ˙ r {\displaystyle G+B-T(Y+B)={\dot {M}}+{\frac {\dot {B}}{r}}}

trong đó B là số lượng trái phiếu có mệnh giá cho một đơn vị trái phiếu là 1 đô la. T là hàm thuế. Trong trạng thái ổn định dài hạn,

M ˙ = B ˙ = 0 {\displaystyle {\dot {M}}={\dot {B}}=0} ,

trong đó có

G + B = T ( Y + B ) . {\displaystyle G+B=T(Y+B).}

Ngay lập tức, nó cho ra dưới dạng tiền cấp vốn, hệ số tài chính trở thành

d Y d G = 1 T ′ {\displaystyle {\frac {dY}{dG}}={\frac {1}{T'}}}

bởi vì trong trường hợp này d B d G = 0 {\displaystyle {\frac {dB}{dG}}=0} . Cả hai trường phái tiền tệ và Keynes đồng ý với ý tưởng này [9] rằng tiền cấp vốn bội chi có tác động tích cực đến nền kinh tế. Nếu thâm hụt ngân sách được cấp vốn bằng trái phiếu, các hệ số tài chính dài hạn trở nên lớn hơn bởi tiền in mới:

d Y d G = 1 + ( 1 − T ′ ) d B d G T ′ , d B d G > 0 {\displaystyle {\frac {dY}{dG}}={\frac {1+(1-T'){\frac {dB}{dG}}}{T'}}\;,\quad {\frac {dB}{dG}}>0}

Vì vậy, nghiên cứu của họ cho thấy rằng, trong thời gian dài, chi tiêu chính phủ bằng trái phiếu cấp vốn làm tăng mức thu nhập hơn tiền cấp vốn bội chi phát hành.

Liên quan

Trường Trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội – Amsterdam Trường Đại học Ngoại thương Trường Trung học phổ thông chuyên, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Trường Đại học Cần Thơ Trường Chinh Trường Đại học Duy Tân Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trường phái trọng tiền http://www.amazon.com/gp/product/0801806550 http://www.economist.com/economics-a-to-z/m#node-2... http://books.google.com/books?hl=en&lr=&id=Oco-yeA... http://books.google.com/books?hl=en&lr=&id=Oco-yeA... http://books.google.com/books?hl=en&lr=&id=t4-nLZR... http://books.google.com/books?id=Oco-yeAJhaEC http://books.google.com/books?id=Q7J_EUM3RfoC&pg=P... http://books.google.com/books?id=Q7J_EUM3RfoC&pg=P... http://books.google.com/books?id=XVCgcHQS_nQC http://books.google.com/books?id=XVCgcHQS_nQC&prin...